

=============Chi tiết tin
1. Đại cương Vitamin
Vitamin là những hợp chất hữu cơ có hoạt tính sinh học không thể thiếu được đối với cơ thể người cũng như động vật, có vai trò quan trọng trong chuyển hóa các chất và đảm bảo cho cơ thể hoạt động bình thường.
Trừ vitamin D và K, tất cả các vitamin còn lại đều được cung cấp từ thức ăn với số lượng nhỏ vì cơ thể không tự tổng hợp được hoặc nếu có chỉ với một lượng rất nhỏ không đủ cho nhu cầu hàng ngày.
2. Danh pháp vitamin
Có thể gọi tên vitam in theo nhiều cách:
Dựa theo tác động dược lý: gọi theo bệnh do thiếu vitamin đó gây ra, ví dụ:
Vitamin E: được gọi là tocopherol
Vitamin A: được gọi là axerophtol do chữa được bệnh khô mắt (xerọphtalmie).
Vitamin PP: được gọi là pellagre preventive do phòng được bệnh pellagra.
Tuy nhiên, do lượng vitam in ngày càng được tìm ra càng nhiều, có khi thiếu một vitamin lại không liên quan đến một bệnh đặc hiệu nào nên cách gọi tên này có nhiều nhược điếm.
Dựa theo chữ cái latin: các vitamin được gọi theo chữ cái latin, như: A, B, C, D; nếu trong nhóm có nhiều loại thì đánh số tiếp theo như vitamin B1, B2...
Dựa theo tên hóa học: các vitamin được gọi theo tên hóa học, ví dụ:
Vitamin D, được gọi là cholecalciferol.
Vitamin K1 được gọi là phytonadion.
Vitamin B1 được gọi là thiamin.
Vitamin B2 được gọi là riboflavin.
3. Phân loại vitamin
Vitamin được phân loại dựa theo tính hòa tan:
Vitamin tan trong dầu: vitamin A, D, E và K thiên nhiên
Vitamin tan trong nước: vitamin nhóm B, vitamin C...
4. Chức năng sinh học
Các chức năng sinh học có liên quan đến vitamin chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn nhưng có thể biết rằng:
Vitamin là thành phần của các coenzym (phần lớn vitamin nhóm B) nên góp phần vào nhiều phản ứng của enzym để tổng hợp hay phân, hủy các chất glucid, protid, lipid được hấp th u từ thức ăn đế biến chúng thành năng lượng cần thiết cho hoạt động tế bào, tăng trưởng, dự trữ năng lượng và duy trì cấu trúc cơ thể.
Vitamin và các nguyên tố vi lượng giữ vai trò xúc tác phản ửng trong cơ thể. Điều này giải thích cho nhu cầu hàng ngày về các chất này là không đáng kể nhưng không thể thiếu được để chuyển đổi và tái tạo không ngừng các tế bào sống.
5. Tình trạng thiếu vitamin
Trong thời gian không được cung cấp từ thức ăn, có thể sử dụng phần vitamin dự trữ, lúc này có thể nhận thấy được ở tế bào sự rối loạn có liên quan đến sự vô hoạt của vài enzym.
Các biêu hiện lâm sàng xuất hiện sau một thòi gian dài bị thiếu, có thể thấy các biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu dưới dạng suy nhược không giải thích được như: không thích ăn, sụt cân, mất ngủ.
6. Tình trạng thừa vitamin
Bệnh do thừa vitamin gọi là hypervitaminose, có thể do ăn uống nhưng ít gặp vì cơ thể có cơ chế tự điều chỉnh trong quá trình hấp thu qua đường tiêu hóa, hoặc do lạm dụng thuốc.
Các vitamin tan trong nước khi thừa thì ít gây độc cho cơ thể. Tuy nhiên, cốc vitamin tan trong dầu như vitamin A khi thừa gây tăng áp lực hộp sọ, vitamin C có thế gây sỏi thận, B6 làm rối loạn thần kinh cảm giác, B12 gây thừa Co làm tăng sản tuyến giáp, tăng hồng cầu quá mức.
7. Ảnh hưởng giữa thuốc và vitamin
Ảnh hưởng vitamin đến tác dụng thuốc
Vitamin D làm tăng Ca huyết nên có thể gây loạn nhịp tim nếu dùng chung với digitalin.
Vitamin D và vitamin K bị tăng chuyển hóa bởi phenytoin và phenobarbital khi dùng lâu dài để chữa bệnh động kinh.
Vitamin K làm giảm tác dụng của thuốc chông đông máu do đối kháng tác dụng.
Vitamin PP có tác dụng giãn mạch ngoại biên nên có thể gây hạ huyết áp thế đứng khi dùng chung với thuốc hạ huyết áp nhóm ức chế adrencrgic.
Vitamin B6 là coenzym vận chuyến nhóm amin và dccarboxyl hóa acid amin nên khi phối hợp vối levodopa là thuốc trị Parkinson sẽ làm thuốc này mất hoạt tính nhanh.
Vitamin C là acid nên làm giảm nhanh hoạt tính các kháng sinh không bền trong môi trường acid như PNC, ampicillin, erythromycin, làm tăng hấp thu thuốc có bản chất acid và làm tăng thải trừ thuốc có bản chất kiềm (alkaloid).
Ảnh hưởng thuốc đến vitamin
Kháng sinh phổ rộng làm mất cân bằng hệ vi khuẩn ruột, giảm lượng vitamin tạo thành ở ruột.
Các ion kim loại hóa trị II và III tạo phức vói vitamin A.
Thuốc nhuận tràng theo cơ chế gây kích ứng niêm mạc tiêu hóa như phenolphtalein khi dùng lâu gây biến đổi cấu trúc niêm mạc ruột làm giảm khả năng hấp thu.
Thuốc nhuận tràng dạng dầu (parafin) là một hàng rào ngăn cản sự tiếp xúc của vitamin tan trong nước với niêm mạc ruột, cản trở sự nhũ hóa và hòa tan của vitamin tan trong dầu.
Colchicin chữa Gout, chống viêm gây tổn thương niêm mạc ruột non, ức chế men ở thành ruột làm giảm hấp thu vitamin B12.
Sulfasalazin trị viêm đại tràng ức chê hấp thu folat ở ruột vào máu.
Các chất cường đối giao cảm (cholinergic) làm tăng nhu động ruột khiến cho các vitamin di chuyển quá nhanh khỏi vị trí hấp thu nên làm giảm hấp thu./.
Lê Thị Kim Nhi - TYT Tân Thới.